Đọc những lời tâng bốc của vài người dành cho các lãnh đạo, bạn sẽ có cảm giác rằng Việt Nam “sắp lên thiên đường” vì lãnh đạo tài quá. Nhưng, hãy nhìn lại thực tại, dưới sự lãnh đạo của các lãnh đạo cộng sản này, Việt Nam hiện nay đang ở đâu và người Việt Nam sướng khổ thế nào? Trong bảng xếp hạng mức hạnh phúc quốc gia (World Happiness Report) công bố năm 2017 của 155 nước, người Việt Nam đứng thứ 94, ngang ngửa với vài nước châu Phi, thấp hơn cả Somalia (hạng 93) (*) — một nước cho tới gần đây bị tàn phá vì nội chiến, mất an ninh trật tự và đói nghèo khiến nó trở thành một cứ điểm của tội phạm cướp biển. Trong xếp hạng 190 quốc gia dựa trên tổng thu nhập quốc gia trên đầu người (GDP per capita), Việt Nam hiện nay đứng thứ 134 (**). Các chỉ số xếp hạng chỉ là một sự khái quát hoá tương đối tình trạng của người dân Việt Nam hiện nay khi vật giá và thuế má ngày càng tăng cao, thất nghiệp trở nên lan tràn, môi trường ngày càng ô nhiễm, tự do ngày càng bị bóp nghẹt khiến nhiều người từ trí thức đến bình dân tìm cách này cách khác bỏ xứ ra đi vì cảm thấy bế tắc.
Nhiều người nhìn các lãnh đạo cộng sản với vài đóng góp cỏn con như là một thành tích gì ghê gớm.
Trừ những kẻ vô dụng, một lãnh đạo tầm thường nhất cũng có cái để khen, đơn giản là khi lãnh đạo chẳng làm gì cũng có cái để khen vì laissez-faire, tức đừng can thiệp, để thị trường tự nó hoạt động tự bản thân nó đã là một chính sách — chính sách không can thiệp. Và khi một lãnh đạo không can thiệp thì chí ít thị trường và xã hội sẽ tự điều tiết với nhau để duy trì và phát triển, như bản thân nó vốn có từ hàng nghìn năm dù có lãnh đạo hay không.
Có điều, sự can thiệp nếu có dưới sự lãnh đạo khôn ngoan sẽ khiến giảm bớt gánh nặng của những tai ương, như trong các tai hoạ thiên nhiên hoặc các cuộc khủng hoảng kinh tế, và thúc đẩy những thành công mới như việc huy động nhân lực và vật lực nhằm xây dựng những công trình hay dự án vượt quá khả năng của tư nhân, như các dự án cơ sở hạ tầng lớn hoặc các công trình về an ninh quốc phòng. Các lãnh đạo tài ba cũng có thể thông qua các hệ thống thuế khoá bảo vệ và hỗ trợ vài ngành công nghiệp, dịch vụ, thực hiện các hệ thống an sinh xã hội giúp đời sống người dân ngày càng thoải mái hơn so với việc để người dân tự xoay sở. Nói như vậy để thấy rằng trừ khi đừng làm những hành động ngu xuẩn và điên cuồng, như phá huỷ hệ thống kinh tế tư nhân ở miền Nam hay đóng cửa nền kinh tế sau năm 1975, bản thân xã hội khi được tự do sẽ tự nó phát triển và ngài lãnh đạo sẽ được ghi nhớ cho sự phát triển đó dưới khoảng thời gian trị vì của mình dù ông ta chẳng phải làm gì hết, ngoại trừ việc duy trì trật tự và đảm bảo công bằng xã hội.
Sự chuyển đổi sang dân chủ từ các nước không có truyền thống dân chủ rất khó khăn. Một phần của sự khó khăn đó xuất phát từ thói quen phục tùng bị trị: thói quen của một tầng lớp bị trị quanh năm suốt tháng dạ, vâng, bẩm, thưa, và tâng bốc vài thành tích của những kẻ cai trị. Thói quen này khiến cho nhiều người quên mất rằng đất nước này là của chung và mọi người công bằng với nhau, những lãnh đạo phải được dân bầu cử tự do chọn lên và đưa xuống bằng lá phiếu và sự tự nguyện của mình. Chỉ khi từ các trí thức tới tầng lớp bình dân ý thức dứt khoát được rằng các lãnh đạo quốc gia phải được bầu chọn bằng lá phiếu và khước từ tất cả sự cầm quyền không qua lá phiếu tự do thì lúc đó đất nước mới có triển vọng sang trang.
Nguyễn Huy Vũ
Leave a Reply