Lược sử quan hệ Mỹ – Trung trước khi Donald J. Trump nắm quyền

Mỹ bao vây, Trung Quốc nguy khốn


Cuối thập niên 1960s, Trung Quốc đang đứng trên bờ vực của sự nguy khốn. 


Mỹ đã bao vây và làm mọi thứ để suy yếu Trung Quốc trong gần 20 năm, kể từ khi Mao Trạch Đông thành lập nhà nước cộng sản ở Trung Quốc năm 1949 với lý do là Mỹ cho rằng Trung Quốc hung hăng và mang mộng bá quyền. 


Cụ thể, ở phía Tây Trung Quốc chiếm Tây Tạng. Ở phía Đông Bắc Trung Quốc ủng hộ quân cộng sản Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên. Ở phía Đông Trung Quốc lăm le tấn công Đài Loan. Và ở phía Nam thì ủng hộ các lực lượng cộng sản nhuộm đỏ các nước Đông Nam Á. 


Đáp lại, Mỹ thực hiện chính sách bao vây Trung Quốc từ bên ngoài và cố gắng lũng đoạn Trung Quốc từ bên trong. Ở phía Đông và Đông Nam, Mỹ đặt các căn cứ quân sự ở các nước đồng minh, gồm Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan. Xa hơn về phía Nam, Mỹ thành lập khối SEATO gồm các nước Đông Nam Á không cộng sản. Xa hơn về Thái Bình Dương, Mỹ thiết lập hiệp ước ANZUS nhằm kết nối với hai nước Úc và New Zealand.


Tình báo CIA của Mỹ huấn luyện và giúp đỡ các lực lượng Tây Tạng chống lại quân cộng sản Trung Quốc. 


Mỹ cũng dàn dựng một cuộc cấm vận đứng sau Liên Hiệp Quốc để cấm tất cả các giao dịch thương mại, trao đổi văn hoá với Trung Quốc. 


Trong nội địa, cuộc cách mạng công nghiệp mang màu sắc xã hội chủ nghĩa có tên gọi Đại Nhảy Vọt đã làm phá sản nền kinh tế, gây ra nạn đói, và khiến Mao Trạch Đông mất hết uy tín. Mao buộc phải đạo diễn cuộc Cách mạng Văn hoá năm 1966 để củng cố quyền lực và đẩy đất nước vào cảnh hỗn loạn, gây ra cảnh đối đầu mạnh mẽ giữa các nhóm trong đảng Cộng sản Trung Quốc.


Ở biên giới trên đất liền, xung đột quân sự với Liên Xô diễn ra. Liên Xô đóng quân áp sát biên giới trong tình thế sẵn sàng tấn công. 


Lúc này Trung Quốc đối diện cùng lúc với hai kẻ thù bao vây mình, và Liên Xô đã thay thế Mỹ trở thành kẻ thù lớn nhất của Trung Quốc. 


Năm 1964, Trung Quốc phát triển thành công vũ khí hạt nhân sau vụ thử ở sa mạc Gobi, Tân Cương. 


Việc Trung Quốc thử nghiệm thành công vũ khí hạt nhân đã làm thay đổi sức mạnh cán cân quân sự, nghiêng hẳn về phe cộng sản. Và nếu Trung Quốc và Liên Xô hợp sức với nhau thì thế giới tự do chắc chắn bị đe doạ.


Mối lo lúc bấy giờ của Mỹ do đó là nhanh chóng tách Trung Quốc ra khỏi Liên Xô. Còn mối lo của Trung Quốc lúc này là hoà hoãn với Mỹ, phát triển kinh tế và quân sự để đối phó với Liên Xô. Trung Quốc cũng cần sự hỗ trợ của Mỹ, nhất là những tin tình báo, trong việc chống lại những áp lực từ Liên Xô. 


Song song đó, mối quan tâm của Mỹ còn là rút quân đội đang tham chiến ở Việt Nam về nước để cắt giảm chi phí chiến tranh, ổn định kinh tế trong nước, và nuôi dưỡng lực lượng phòng chuẩn bị cho cuộc chiến với Liên Xô. Mỹ cũng muốn Trung Quốc chấm dứt hỗ trợ các phe cộng sản lũng đoạn các nước đồng minh phi cộng sản ở Đông Nam Á. Hơn nữa, việc thiết lập một mối quan hệ với Trung Quốc để từ đó làm đòn bẩy trong các vấn đề phức tạp sẽ dễ dàng cho Mỹ hơn rất nhiều khi so với việc không có bất kỳ kênh liên lạc nào. 


Cả hai Mỹ và Trung Quốc vì lợi ích của mình mà hợp tác với nhau chống Liên Xô. 


Giai đoạn tiếp cận


Trong cố gắng thể hiện một mối quan hệ nồng ấm hơn, đội bóng bàn của Trung Quốc mời đội bóng bàn của Mỹ sang thăm vào tháng 4/1971. Các nhà báo Mỹ tháp tùng là những người phương Tây đầu tiên tới thăm Trung Quốc sau năm 1949. 


Tháng 7/1971, Ngoại trưởng Henry Kissinger bí mật thăm Trung Quốc để dàn xếp cho chuyến thăm của tổng thống Richard Nixon đến Trung Quốc một năm sau đó. Không lâu sau chuyến thăm của Henry Kissinger, Liên Hiệp Quốc công nhận Trung Quốc là thành viên Hội đồng Bảo An, thay cho vị trí của chính quyền Tưởng Giới Thạch hiện cố thủ ở Đài Loan vốn nắm giữ ghế này từ năm 1945. 


Tháng 2/1972, Tổng thống Richard Nixon có chuyến thăm 8 ngày đến Trung Quốc đánh dấu việc khởi đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Tại đây, Nixon trao đổi với Mao Trạch Đông và cùng với thủ tướng Chu Ân Lai ký Thông cáo Thượng Hải. Thông cáo Thượng Hải đặt nền tảng cho đối thoại giữa hai nước trên một loạt các vấn đề phức tạp mà cả hai cùng quan tâm, trong đó đặc biệt là tình hình ở bán đảo Triều Tiên, cuộc chiến Việt Nam và tình hình bán đảo Đông Dương, và đặc biệt là Đài Loan. Hoa Kỳ cam kết tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc ở Đài Loan và vấn đề Đài Loan là chuyện của người Hoa. Hoa Kỳ sẽ triệt thoái hết quân đội và khí tài ra khỏi Đài Loan và sẽ làm từ từ tuỳ tình hình ngày càng cải thiện. 


Quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước diễn ra khá chậm chạp và kéo dài gần cả thập kỷ.


Giai đoạn bình thường hoá


Năm 1979, Hoa Kỳ dưới quyền tổng thống Jimmy Carter đã đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Trung Quốc. Để đạt được điều này, Hoa Kỳ đồng ý cắt bỏ mối quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, và lúc này Hoa Kỳ chỉ duy trì những mối quan hệ không chính thức với hòn đảo này.


Ngay sau đó, Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình, một người đầy quyền lực đang dẫn dắt những cải cách kinh tế của Trung Quốc, viếng thăm Hoa Kỳ. 


Vào tháng 4, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua dự luật Quan hệ Đài Loan (Taiwan Relations Act) cho phép tiếp tục duy trì các mối quan hệ thương mại và văn hoá giữa Hoa Kỳ và Đài Loan. Trong đó, Hoa Kỳ cam kết giúp Đài Loan khả năng tự vệ nhưng, một cách chính thức, không đi lệch khỏi chính sách Một Trung Quốc của mình. 


Dưới thời tổng thống Ronald Reagan, lo ngại trước sự bành trướng của Liên Xô, tổng thống Reagan cố gắng thắt chặt quan hệ với Trung Quốc. Trong khi đó, để trấn an Đài Loan, hiện đã là một nước phát triển phồn thịnh, chính quyền Reagan ký Sáu Cam Kết (Six Assurances) với Đài Loan. Nội dung của sáu cam kết này bao gồm: i) Hoa Kỳ không đưa ra ngày ngừng bán vũ khí cho Đài Loan; ii) Hoa Kỳ không thay đổi các điều khoản trong Luật Quan Hệ Đài Loan (Taiwan Relations Act); iii) Hoa Kỳ không tham vấn Trung Quốc trước khi bán vũ khí cho Đài Loan; iv) Hoa Kỳ không điều đình giữa Trung Quốc và Đài Loan; v) Hoa Kỳ không thay đổi thái độ về chủ quyền của Đài Loan, và rằng chuyện Đài Loan là chuyện của người Hoa với nhau và Hoa Kỳ không ép Đài Loan đàm phán với Trung Quốc; vi) Hoa Kỳ sẽ không chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Đài Loan. 


Khi đưa ra sáu cam kết với Đài Loan nhằm một cách trực tiếp trấn an và giúp đỡ sự độc lập của hòn đảo này, giới chức Hoa Kỳ đã lường trước từ lâu rằng rồi có ngày sau khi giải quyết xong chuyện Liên Xô, mối quan tâm của họ sẽ là Trung Quốc. Thêm một nước Đài Loan với kỹ thuật hùng mạnh, kinh tế phồn thịnh vào một nước Trung Quốc khác nào hổ mọc thêm cánh, và điều này khiến cho Hoa Kỳ khó mà đương đầu. 


Để lấy lại mối quan hệ với Trung Quốc sau khi trấn an Đài Loan, tổng thống Reagan thăm Trung Quốc vào tháng 4 và tháng 6 năm 1984, cho phép Hoa Kỳ bán vũ khí cho Trung Quốc. 


Đến tháng 6/1989 thảm sát Thiên An Môn diễn ra. Ngày 3/6/1989, chính quyền Trung Quốc cho quân đội vào càn quét quảng trường giết hại hàng trăm sinh viên. Hoa Kỳ chấm dứt chương trình bán vũ khí cho Trung Quốc và đóng băng mối quan hệ. 


Cuối năm 1991, Liên bang Xô Viết chính thức sụp đổ. Hoa Kỳ trở thành cường quốc duy nhất trên thế giới. Lúc này, sau gần 20 năm cải cách kinh tế và mở cửa, kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng và mở ra nhiều cơ hội đầu tư. Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Bill Clinton bắt đầu chính sách “tiếp cận mang tính xây dựng (constructive engagement)” với Trung Quốc nhằm mở đường cho việc gia tăng đầu tư và thương mại với Trung Quốc, song song đó khuyến khích Trung Quốc trở thành một đối tác toàn cầu. Trung Quốc lúc này trở thành một thị trường tiềm năng của thế giới. 


Tháng 3/1996, Đài Loan tổ chức bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên và Lý Đăng Huy của Quốc Dân Đảng, một người gốc Đài Loan và chủ trương Đài Loan độc lập, đã thắng cử mặc dù Trung Quốc thử tên lửa đe doạ cử tri đừng bầu cho ứng cử viên ủng hộ sự độc lập của Đài Loan. 


Ngừng một chút để nói sơ về lịch sử hiện đại Đài Loan. Sau khi Tưởng Giới Thạch dẫn tàn quân chạy ra đảo, ông đã ra tay thanh trừng toàn bộ các quan chức được cho là tham nhũng, thực hiện các cải cách kinh tế và cai trị Đài Loan bằng bàn tay sắt về chính trị. Kinh tế Đài Loan sau đó nhanh chóng phát triển. Tới thời Tưởng Kinh Quốc, chính trị từng bước được nới lỏng để tới khi Lý Đăng Huy cầm quyền, ông đã cho tổ chức cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên, chính thức hình thành chế độ dân chủ cho Đài Loan.  


Tháng 10/2000, trong nỗ lực thúc đẩy quan hệ thương mại sâu rộng hơn với Trung Quốc và mở ra kỷ nguyên toàn cầu hoá, tổng thống Bill Clinton ký Luật Quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc (US-China Relations Act) cho phép Bắc Kinh có mối quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn với Mỹ, mở đường cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). 


Kể từ năm 1980, khi các cấm vận đối với Trung Quốc dần được dỡ bỏ, cho đến năm 2004, thương mại hai chiều Mỹ – Trung Quốc đã tăng từ 5 tỉ lên 231 tỉ đô la, và năm 2006 Trung Quốc trở thành đối tác thương mại thứ hai thế giới của Mỹ, sau Canada.


Đến tháng 9/2008, Trung Quốc trở thành chủ nợ lớn nhất của Mỹ, nắm giữ khoảng 600 tỉ đô la trái phiếu chính phủ Mỹ. 


Đến tháng 8/2010, Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, qua mặt Nhật Bản. GDP của Trung Quốc là 5,88 ngàn tỉ đô-la khi so với GDP của Nhật là 5,47 ngàn tỉ đô-la vào đầu năm 2011. Lúc này, giới chuyên gia kinh tế dự đoán Trung Quốc sẽ vượt Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới trước năm 2027.


Song song với sức mạnh kinh tế đi lên của Trung Quốc, Trung Quốc đầu tư mạnh mẽ vào quân đội. Từ năm 1990 cho đến 2005, trung bình mỗi năm Trung Quốc tăng chi tiêu quốc phòng 15%. Riêng năm 2007, Trung Quốc tăng lên 18%, tổng trị giá hơn 45 tỉ đô la Mỹ. Đó là con số công bố công khai. Con số thực có lẽ lớn hơn nhiều.


Mỹ bắt đầu lo ngại. Năm 2007, trong chuyến thăm châu Á, Phó Tổng thống Dick Cheney tuyên bố việc tăng cường đầu tư quân sự của Trung Quốc không phù hợp với mục tiêu trỗi dậy hoà bình. Đáp lại, Trung Quốc bảo việc tăng đó chỉ là giúp đào tạo tốt hơn, tăng lương bổng cho lính để bảo vệ an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. 


Trong khoảng thời gian này, Mỹ vẫn theo dõi sát sao Trung Quốc. Cuộc đụng độ của máy bay do thám Mỹ với chiến đấu cơ của Trung Quốc vào tháng 4/2001 khiến một phi công của Trung Quốc chết và buộc máy bay Mỹ cùng phi hành đoàn phải hạ cánh khẩn cấp xuống đảo Hải Nam là một ví dụ. 


Tuy vậy, trên bình diện ngoại giao, Mỹ vẫn kêu gọi Trung Quốc trở thành một đối tác có trách nhiệm và dùng ảnh hưởng của mình để giải quyết các vấn đề quốc tế như Sudan, Bắc Triều Tiên, và Iran. 


Chính quyền tổng thống Barack Obama chuyển trục về châu Á


Tháng 11/2011, sau khi giải quyết các hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và khi nền kinh tế Mỹ dần hồi phục, chính quyền của tổng thống Obama bắt đầu chuyển trục về châu Á nhằm đối phó với Trung Quốc. 


Ngoại trưởng Hillary Clinton kêu gọi tăng cường đầu tư, cả về ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và những thứ khác ở châu Á để đối chọi lại Trung Quốc. 


Trong tháng đó, tổng thống Obama cũng tuyên bố Mỹ với 8 quốc gia đã đạt được thoả thuận Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership, viết tắt là TPP). Nỗ lực của Hiệp định là chuyển các mắc xích trong hệ thống chuỗi sản xuất toàn cầu từ chỗ chủ yếu tập trung ở Trung Quốc sang các nước đồng minh trong hệ thống TPP. Nó trước mắt làm giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào Trung Quốc về thương mại. Và sau đó nó sẽ giúp các đồng minh Mỹ mạnh lên về thương mại, và từ hợp tác kinh tế chuyển thành hợp tác an ninh như là một mạng lưới đồng minh nhằm đối chọi lại với Trung Quốc


Tổng thống Obama sau đó tuyên bố lên kế hoạch triển khai 2.500 lính thuỷ đánh bộ tới Úc, và dĩ nhiên bị Trung Quốc chỉ trích. Trung Quốc chỉ trích vì họ thấy Mỹ bắt đầu triển khai kế hoạch bao vây mình như năm xưa. 


Tháng 11/2012, Đại hội Đảng Toàn quốc của Trung Quốc lần thứ 18 kết thúc với việc thay thế tới 70% các thành viên trong các cơ quan đầu não lãnh đạo đất nước. Lý Khắc Cường làm thủ tướng. Tập Cận Bình làm chủ tịch nước, tổng bí thư, và chủ tịch quân uỷ trung ương. Các lãnh đạo mới, trẻ hơn của Trung Quốc bắt đầu dẫn dắt đất nước mình vào một kỷ nguyên mới.


Ngày 7-8/6/2013, tổng thống Obama mời chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang hội kiến trong một hội nghị cấp cao ở Sunnylands Estate, California nhằm xây dựng mối quan hệ cá nhân để giải quyết các bất đồng. Tổng thống Obama cố tình tổ chức buổi hội nghị cấp cao này dưới dạng thân mật, các bên chỉ mặc áo sơ mi. Cả hai cùng cam kết hợp tác giải quyết các vấn đề song phương và toàn cầu, trong đó gồm biến đổi khí hâu và Bắc Triều Tiên. 


Ngày 12/11/2014, bên lề Hội nghị Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, tổng thống Barack Obama và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cùng đưa ra thông cáo chung về biến đổi khí hậu và hứa cắt giảm khí carbon. 


Trong khi đó, Hoa Kỳ cũng bắt đầu trở nên cứng rắn hơn với Trung Quốc. Ngày 19/5/2014, Hoa Kỳ bỏ tù 5 tin tặc (hacker) của Trung Quốc, cáo buộc họ ăn cắp công nghệ và có liên hệ với quân đội Trung Quốc. Trung Quốc ngay lập tức ngừng việc hợp tác với Hoa Kỳ trong nhóm làm việc chung về an ninh mạng. Vào tháng 6/2015, Hoa Kỳ phát hiện rằng các tin tặc Trung Quốc lại đột nhập vào hệ thống của Văn phòng Quản lý Nhân sự (Office of Personnel Management) và ăn cắp dữ liệu của 22 triệu nhân viên liên bang đã nghỉ hoặc đương chức. 


Trong suốt nhiệm kỳ của tổng thống Barack Obama, Trung Quốc liên tục cơi nới các đảo và quân sự hoá chúng trên biển Đông. Ngày 30/5/2015, tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 14 về an ninh châu Á, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter kêu gọi Trung Quốc ngừng những nổ lực cải tạo và quân sự hoá các đảo. Hoa Kỳ tung ra bằng chứng là các ảnh vệ tinh chụp các quân cụ có mặt trên các đảo. Đáp lại Trung Quốc cho rằng việc xây dựng chỉ nhằm mục đích dân sự. 


Như vậy, kể từ cuối nhiệm kỳ đầu tiên của tổng thống Obama, giới chính trị Hoa Kỳ bắt đầu ý thức về sự trỗi dậy của Trung Quốc và bắt đầu e sợ. Chiến lược của nội các tổng thống Obama lúc này là bắt đầu định hướng phối trí quân đội về châu Á, xây dựng các chuỗi đồng minh và chuỗi hệ thống cung ứng mới nhằm tránh phụ thuộc vào Trung Quốc. Song song đó, tổng thống Barack Obama cố tình kết thân với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhằm tạo ra một mối quan hệ hữu hảo đặng dàn xếp và thương lượng các vấn đề quốc tế. Tuy vậy, những nỗ lực của nội các tổng thống Barack Obama chưa có nhiều chuyển biến, nỗ lực xoay trục về châu Á vẫn còn mờ nhạt. 


Nguyễn Huy Vũ

7.2.2021


by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *