Rất nhiều lần, tôi đã nghe những lời bào chữa rằng họ, những lãnh đạo cộng sản, rất yêu nước và những sai lầm khi dẫn dắt đất nước mình trở thành một xứ kiệt quệ, đói nghèo, và thất bại bởi vì họ tin tưởng vào một tư tưởng sai, dù sai nhưng họ là những người yêu nước.
Đối với tôi, họ, những lãnh đạo cộng sản có thể sai khi chọn một tư tưởng nhưng họ tuyệt đối không yêu nước, họ yêu quyền lực và chính bản thân họ hơn.
Vì yêu nước trước hết là phải yêu đồng bào mình và đất nước mình. Và đất nước phải hiểu theo nghĩa đen là đất, nước, và những không gian vật lý liên quan đến nó, như không khí và nước.
Vì vậy mà không thể gọi bất kỳ một cá nhân nào là yêu nước khi anh ta giết hại một cách có hệ thống và đồng loạt đồng bào của mình. Không thể gọi anh ta là yêu nước khi bởi vì những chính sách của anh ta chỉ đem lại đau khổ cả về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân mình. Không thể gọi anh ta là yêu nước khi anh đem bán đi hoặc hủy hoại đất nước mình. Và anh ta cũng không thể nào gọi là yêu nước khi anh ta lợi dụng sự ngây thơ của quần chúng hay quyền lực của hệ thống mà tiếm quyền của nhân dân, đứng trên đầu trên cổ nhân dân, và tự cho mình quyền định đoạt thay quyết định của hàng triệu nhân dân mà không qua bất cứ một sự ủy quyền công khai nào thông qua các cuộc bầu cử tự do và minh bạch.
Phải đứng trên một quan niệm và một hệ quy chiếu như vậy chúng ta mới có thể đánh giá được đâu là một lãnh đạo yêu nước và đâu là một tên độc tài đàn áp dân tộc mình.
Và nhìn với một tiêu chuẩn như vậy để thấy rằng không một lãnh đạo cộng sản nào yêu nước cả, vì không một lãnh đạo nào được chính người dân bầu lên để thực thi nguyện vọng của nhân dân. Họ tuyên truyền về một hệ thống công bằng và tự do nhưng chính họ và những đồng chí của họ chia nhau quyền lực, quyền lợi và địa vị trên đầu của dân tộc, và sẵn sàng bỏ tù bất cứ ai thách thức hệ thống phân bổ quyền lực của họ. Làm sao có thể biện minh cho lòng yêu nước, yêu nhân dân khi chính anh đi cướp đi các quyền tự do của nhân dân, mà một trong các quyền đó là quyền tự do ngôn luận và quyền tự do bầu chọn nên những lãnh đạo dẫn dắt đất nước mình?
Với một lãnh tụ cộng sản, người đã thiết lập và áp đặt một chính thể cộng sản lên một đất nước, việc đầu tiên khi một nhân vật lịch sử như vậy ra đi, người ta thường tự hỏi rằng dưới chính thể của ông ta, bao nhiêu người đã là nạn nhân. Một ước lượng của Cuba Archive đưa ra con số ít nhất là 10 ngàn và có thể lên tới con số 100,000. Không ai biết một con số chính xác, vì có nhiều những nạn nhân mãi mãi không được ai biết đến.
Nhưng đó chỉ là những con số bề nổi, dễ dàng cân đo đong đếm được. Cũng như bất kỳ một chế độ cộng sản nào, những giá trị bị phá hủy hay mất đi khó lòng nào định lượng. Đó là sự mất đi những cơ hội hiếm hoi để phát triển kinh tế, để nuôi dưỡng những tài năng, tri thức và văn hóa xứ mình. Đó còn là hủy hoại vốn xã hội và sự chia rẽ của người dân. Nó không chỉ là sự nghèo đói của lương thực khiến gu ẩm thực của người dân sau nhiều thập niên đói khát đã thay đổi đi, hay khiếu thẩm mỹ vì sự đói nghèo đã biến mất. Gần sáu thập niên sống dưới sự tuyên truyền một chiều, chính quyền đã biến hai thế hệ người dân thành những con người tin vào lãnh tụ và chế độ. Cũng ngần ấy thời gian, chính quyền đã kịp xây dựng xung quanh mình một hệ thống thân hữu hưởng đặc quyền đặc lợi nhờ duy trì hệ thống. Và cho dù đất nước một ngày nào đó trở thành một xứ dân chủ, sự lũng đoạn chính trị và kinh tế của nhóm người này là một điều thấy được.
Một con người lợi dụng quyền lực của nhân dân để nắm quyền, để rồi cuối cùng dùng chính quyền lực để cầm tù, giết chóc, và bịt miệng nhân dân mình, biến đất nước mình từ một hòn đảo xinh đẹp trở thành một nơi kiệt quệ thì khó có thể nào gọi là một con người yêu nước, yêu đồng bào, đất nước mình được, huống chi là gán ghép những mỹ từ lãnh tụ hay vĩ đại.
OL, 29.11.2016
Leave a Reply