Hiến pháp Cộng hoà Liên bang Việt Nam. Chương 11-Tình trạng Phòng vệ Quốc gia

Điều 111. Tuyên bố tình trạng phòng vệ

(1) Khi quốc gia đang bị tấn công hoặc sắp bị tấn công bởi một lực lượng vũ trang, chính phủ quốc gia sẽ đề nghị và cả hai viện sẽ phải thông qua để xác định tình trạng phòng vệ. Việc xác định sẽ được ban hành bởi Chủ tịch nước.

(2) Trong trường hợp quốc gia đang bị tấn công bởi lực lượng vũ trang và các cơ quan quốc gia có thẩm quyền chưa kịp xác định tình trạng phòng vệ như trong đoạn (1) của Điều này thì điều đó đồng nghĩa với việc tình trạng phòng vệ đã được tự động xác định ngay khi cuộc tấn công bắt đầu. Chủ tịch nước sẽ công bố tình trạng phòng vệ ngay sau khi hoàn cảnh cho phép. 

Điều 112. Quyền chỉ huy của thủ tướng

Sau khi tình trạng phòng vệ được tuyên bố, quyền chỉ huy các lực lượng vũ trang được trao cho Thủ tướng. 

Điều 113. M rộng các quyền lập pháp của Liên bang

(1) Trong tình trạng phòng vệ, Liên bang sẽ có quyền lập pháp song trùng kể cả trong những lĩnh vực lập pháp thuộc thẩm quyền của Bang. Những luật như vậy sẽ cần sự chuẩn thuận của Thượng nghị viện. 

(2) Luật liên bang theo đoạn (1) của Điều này có thể được thực hiện với mục đích chuẩn bị trước khi xảy ra tình trạng phòng vệ. 

Điều 114. D luật khẩn cấp

Trong tình trạng phòng vệ, dự luật mà Chính phủ Liên bang xem là khẩn cấp sẽ được chuyển đồng thời đến cả Hạ nghị viện và Thượng nghị viện. Cả hai viện sẽ nhanh chóng thảo luận về dự án luật này trong phiên họp chung. Khi sự chuẩn thuận của Thượng nghị viện là cần thiết để dự luật trở thành luật, nó cần nhận được đa số phiếu ủng hộ từ Thượng nghị viện. Chi tiết về quy tắc thủ tục sẽ được đệ trình bởi Hạ nghị viện và cần sự đồng thuận bởi Thượng nghị viện. 

Điều 115. Uỷ Ban Hỗn hp

(1) Uỷ ban Hỗn hợp sẽ bao gồm các thành viên đến từ Hạ nghị viện và Thượng nghị viện. Hạ nghị viện đóng góp hai phần ba số thành viên của Uỷ ban Hỗn hợp và Thượng nghị viện đóng góp một phần ba số thành viên của Uỷ ban Hỗn hợp. Mỗi bang sẽ chọn ra một thành viên Thượng nghị viện nhằm đại diện cho bang của mình trong Uỷ ban Hỗn hợp; các thành viên này sẽ không chịu sự chỉ đạo nào. Hạ nghị viện sẽ chỉ định các thành viên theo tỉ lệ tương ứng với các nhóm đảng khác nhau trong Hạ nghị viện; các thành viên này không thể đồng thời là các thành viên của Chính phủ Liên bang. Việc thành lập Uỷ ban Hỗn hợp và các thủ tục sẽ được điều chỉnh bằng các quy tắc thủ tục bởi Hạ nghị viện và cần sự phê chuẩn của Thượng nghị viện. 

(2) Chính phủ Liên bang sẽ thông báo cho Uỷ ban Hỗn hợp về kế hoạch phòng vệ quốc gia. 

(3) Trong tình trạng phòng vệ, nếu Uỷ ban Hỗn hợp nhận thấy rằng không thể triệu tập Hạ nghị viện hoặc Thượng nghị viện vì những lý do bất khả kháng, Uỷ ban Hỗn hợp với hai phần ba phiếu bầu hoặc ít nhất một nửa số thành viên của nó sẽ quyết định rằng Uỷ ban Hỗn hợp giữ vai trò cho cả Hạ nghị viện và Thượng nghị viện. 

(4) Luật được ban hành bởi Uỷ ban Hỗn hợp sẽ không thể thay đổi một phần hoặc toàn bộ bản Hiến pháp. Uỷ ban Hỗn hợp cũng sẽ không có thẩm quyền để ban hành luật liên quan đến chủ quyền và sự phân định lãnh thổ. 

Điều 116. S dụng Cảnh sát Liên bang

(1) Trong thời gian phòng vệ, Chính phủ Liên bang, tuỳ theo yêu cầu của hoàn cảnh, có thể triển khai lực lượng Cảnh sát Liên bang trên toàn lãnh thổ quốc gia.  Chính phủ Liên bang cũng có thể ban hành các hướng dẫn không chỉ cho các cơ quan hành chính liên bang mà còn cho các chính quyền cấp bang và, trong trường hợp cần thiết, cho cả các cơ quan có thẩm quyền cấp bang và uỷ thác trách nhiệm cho các thành viên của các chính quyền cấp bang được chỉ định. 

(2) Hạ nghị viện, Thượng nghị viện, và Uỷ ban Hỗn hợp sẽ được thông báo ngay lập tức các biện pháp được thực hiện trong đoạn (1) của Điều này.

Điều 117. Toà án Hiến pháp Liên bang

Địa vị hiến định cũng như việc thực hiện những chức năng hiến định của Toà án Hiến pháp Liên bang và các thẩm phán của nó không thể bị thay đổi. Luật về Toà án Hiến pháp Liên bang chỉ có thể bị sửa đổi bởi một luật bởi Uỷ ban Hỗn hợp nếu như Toà án Hiến pháp Liên bang cho rằng điều đó là cần thiết để nó có thể hoạt động được. Trong khi chờ thông qua một luật như vậy, Toà án Hiến pháp Liên bang có thể thực hiện những biện pháp cần thiết để duy trì hoạt động của mình. Những quyết định mà Toà án Hiến pháp Liên bang thi hành trong câu 2 và 3 của Điều này cần sự ủng hộ đa số của những thẩm phán có mặt. 

Điều 118. Hết hạn Nhiệm kỳ

(1) Các nhiệm kỳ bầu cử của Hạ nghị viện hoặc các nghị viện Bang mà hết hạn trong thời gian có tình trạng phòng vệ thì sẽ kết thúc sau sáu tháng kể từ khi tình trạng phòng vệ kết thúc. 

(2) Nếu nhiệm kỳ của Chủ tịch nước kết thúc trong thời gian có tình trạng phòng vệ, thì quyền lực của ông sẽ được Chủ tịch Thượng nghị viện thay mặt thực thi, và nhiệm kỳ này sẽ kết thúc sau chín tháng kể từ khi tình trạng phòng vệ kết thúc. 

(3) Nhiệm kỳ của một thành viên Tòa án Hiến pháp Liên bang hết hạn trong thời gian có tình trạng phòng vệ sẽ kết thúc sau sáu tháng kể từ khi tình trạng phòng vệ kết thúc.

(4) Uỷ ban Hỗn hợp, khi cần phải bầu ra một thủ tướng mới, sẽ thực hiện bằng cách bỏ phiếu theo đa số thành viên. Chủ tịch nước sẽ đề xuất một ứng cử viên cho Uỷ ban Hỗ hợp. Ủy ban Hỗn hợp chỉ có thể bày tỏ sự bất tín nhiệm đối với Thủ tướng đương nhiệm bằng cách bầu ra một người kế nhiệm với một tỉ lệ đa số lớn gồm hai phần ba số thành viên của mình.

(5) Hạ nghị viện sẽ không bị giải thể trong khi đang tồn tại tình trạng phòng vệ.

Điều 119. Thi hạn của các Điều khoản Khẩn cấp

Các luật được thông qua bởi Uỷ ban Hỗ hợp, cũng như các văn bản pháp luật được ban hành trên cơ sở những luật đó sẽ hết hiệu lực không trễ hơn 6 tháng sau khi tình trạng phòng vệ kết thúc. 

Điều 120. Bãi bỏ Tình trạng Phòng vệ

(1) Hạ nghị viện, với sự chuẩn thuận của Thượng nghị viện, có thể bãi bỏ bất cứ luật nào được thông qua bởi Uỷ ban Hỗn hợp. Thượng nghị viện có thể yêu cầu Hạ nghị viện đưa ra quyết định về điều này. Bất kỳ một biện pháp nào được thực hiện bởi Uỷ ban Hỗn hợp hoặc Chính phủ Liên bang nhằm ngăn chặn một mối nguy hiểm đều có thể bị huỷ bỏ nếu cả Hạ nghị viện và Thượng nghị viện cùng yêu cầu như vậy.  

(2) Hạ nghị viện, với sự chuẩn thuận của Thượng nghị viện, có thể tuyên bố chấm dứt tình trạng phòng vệ bất cứ lúc nào bằng một nghị quyết được công bố bởi Chủ tịch nước. Thượng nghị viện cũng có thể yêu cầu Hạ nghị viện đưa ra quyết định về điều này. Tình trạng phòng vệ phải được tuyên bố kết thúc một cách không chậm trễ nếu các điều kiện nhằm xác định nó không còn tồn tại. 

(3) Việc ký kết hoà ước sẽ được quy định bởi một luật liên bang. 

(Hết chương 10 của Hiến pháp Cộng hoà Liên bang Việt Nam)


by

Tags: